Công Nghệ

Cửa vào y tế thông minh

Trực Thanh Thứ Hai | 26/10/2020 08:00

Khai trương nền tảng khám bệnh từ xa của Bộ Y tế. Ảnh: TTXVN

Kỹ thuật số đang trở thành khoản đầu tư mới đầy hấp dẫn của ngành y tế.
Khai trương nền tảng khám bệnh từ xa của Bộ Y tế. Ảnh: TTXVN

Mới đây, Tập đoàn y khoa Hoàn Mỹ đã quyết định đầu tư hơn 100 tỉ đồng để phát triển mô hình bệnh viện thông minh, nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Dự án này có sự hợp tác của FPT, triển khai hệ thống quản lý bệnh viện thông minh, xây dựng hệ thống bệnh án điện tử thông minh và cung cấp dịch vụ điện toán đám mây lưu trữ dữ liệu cho Hoàn Mỹ. Hiện đã có 6 sở y tế và hơn 300 bệnh viện, cơ sở y tế trên cả nước vận hành hiệu quả hệ thống quản lý bệnh viện thông minh của FPT. 

Y tế chuyển đổi số 

Không chỉ các tập đoàn y khoa trẻ trung như Hoàn Mỹ, ngay cả các bệnh viện có tuổi đời trăm năm như Chợ Rẫy cũng tham gia vào ứng dụng công nghệ mới như hội chẩn, tư vấn khám chữa bệnh từ xa, sử dụng công nghệ Telehealth. Công nghệ này do Tổng Công ty Giải pháp Doanh nghiệp Viettel phát triển, cho phép kết nối với hơn 300 điểm cầu là bệnh viện, cơ sở y tế, giúp các bác sĩ có thể hội chẩn và đưa ra hướng điều trị tốt nhất cho người bệnh.

 


Ở quy mô lớn hơn, Bộ Y tế cũng vừa tổ chức Lễ khánh thành 1.000 cơ sở y tế khám, chữa bệnh từ xa, đánh dấu cột mốc quan trọng trong chuyển đổi số ngành y tế Việt Nam. Ông Lý Đức Đoàn, Giám đốc Trung tâm Y tế số FPT, cho biết, công nghệ hiện đại trong lĩnh vực y tế sớm được thử nghiệm và triển khai thực tế tại Việt Nam như công nghệ in 3D, giải pháp hỗ trợ chẩn đoán bệnh, hình ảnh từ xa bằng trí tuệ nhân tạo, hệ thống phẫu thuật bằng robot, hệ thống công nghệ y tế trực tuyến Telemedicine...

“Đây có thể coi là thời điểm vàng để đẩy mạnh chuyển đổi số ngành y tế, hướng tới quốc gia số”, đại diện FPT nhận định. Thực tế, sự quá tải của hệ thống bệnh viện, dân số bùng nổ, các dịch bệnh mới được phát hiện... đang đặt nền y tế thế giới và Việt Nam trước những áp lực mới. Tình trạng này được thấy rõ qua đại dịch COVID-19 khi chính sự thiếu thốn về nhân lực, vật lực tại các bệnh viện đã gây ra hậu quả nặng nề về nhân mạng ngay cả tại các nước có nền y tế phát triển như Mỹ, Đức, Ý...

Chính vì vậy, việc thay đổi các phương thức truyền thống trong quản lý dòng bệnh nhân trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Tại Việt Nam, ngoài việc đối phó với dịch bệnh, ngành y tế còn đứng trước áp lực lớn của việc phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng. Theo một báo cáo năm 2018 của Business Monitor International, chi phí chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam dự kiến tăng từ 170 USD/người/năm vào năm 2017 lên 400 USD/người/năm vào năm 2027. Với tốc độ tăng trưởng như vậy, ngành y tế Việt Nam sẽ cần tăng ít nhất gấp đôi lượng thiết bị và nhân lực hiện tại trong vòng 10 năm tới.

Bước ngoặt cho hướng đi mới

Theo ông Phạm Hồng Sơn, Tổng Giám đốc GE Việt Nam kiêm Giám đốc Điều hành GE Healthcare Việt Nam, những biến động như dịch COVID-19 là tác nhân để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trong ngành y tế hơn là tạo ra bước ngoặt, đưa y tế đi theo một hướng mới hoàn toàn. “Đại dịch khiến cho nhu cầu về y tế tăng đột biến, khó có thể đáp ứng theo cách trực tiếp truyền thống. Điều này đã nhanh chóng thúc đẩy việc ứng dụng công nghệ trong y tế, việc mà trước đây có thể còn vướng mắc. Đây cũng là dịp để thấy rõ được hiệu quả và vai trò của công nghệ”, ông Hồng Sơn chia sẻ.

Lợi ích rõ ràng nhất của công nghệ số chính là cải thiện hiệu quả chẩn đoán bệnh, giảm tối đa lỗi do con người gây ra, tăng độ chính xác và quản lý bệnh nhân tốt hơn. Chẳng hạn, thiết bị chụp X quang di động cầm tay do GE Healthcare phát triển được tích hợp trí tuệ nhân tạo để cảnh báo tình trạng tràn dịch màng phổi. Thiết bị này đang được sử dụng ở những bệnh viện hàng đầu tại Việt Nam và cho thấy độ chính xác trong chẩn đoán lên đến 95%, giúp tiết kiệm tối đa thời gian và đảm bảo an toàn cho bệnh nhân. Trí tuệ nhân tạo cũng có thể được ứng dụng vào việc quản lý hoạt động của khoa chẩn đoán hình ảnh, giúp giảm thời gian kiểm tra bệnh nhân khoảng 16%.

 

Bên cạnh đó, với công nghệ hiện đại, các bác sĩ có thể giám sát được tình trạng của bệnh nhân mà không cần gặp trực tiếp. Điều này có ý nghĩa trong mọi hoàn cảnh, không chỉ trong trường hợp dịch bệnh hay thiên tai khi có thể giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm các bệnh truyền nhiễm, đồng thời giúp tạo cơ hội tiếp cận với dịch vụ y tế chất lượng cao cho người dân ở vùng sâu vùng xa, nơi hạn chế về điều kiện cơ sở vật chất. 

Ngoài ra, việc giám sát từ xa cũng giúp bác sĩ hỗ trợ bệnh nhân thường xuyên và kịp thời hơn, cho phép người dân tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng cao ngay ở tuyến xã, huyện. Đặc biệt người lớn tuổi, người dân vùng sâu vùng xa chỉ cần đến trạm y tế xã để được kết nối, hội chẩn bởi các chuyên gia ở tuyến trên.

Chẳng hạn, ngay sau khi kết nối với Trung tâm Tim mạch Bệnh viện E, Bệnh viện Sản nhi Đà Nẵng có thể sẽ được các bác sĩ Bệnh viện E hỗ trợ kiến thức để mổ tim nội soi sớm hơn.

Theo số liệu từ Solidiance, trung bình Việt Nam có khoảng 8,6 bác sĩ/10.000 dân. Tuy nhiên, hầu hết nhân viên y tế đều tập trung tại 2 thành phố lớn là Hà Nội và TP.HCM. Các chương trình đào tạo trực tuyến cũng là lời giải, giúp cân bằng về chuyên môn giữa các tuyến y tế. “Các khóa học trực tuyến thực sự rất thuận tiện cho y bác sĩ khi vừa có thể làm việc tại phòng khám, vừa có thể học tập để nâng cao trình độ chuyên môn. Nhờ có những khóa đào tạo trực tuyến như thế này, tôi không chỉ tiếp thu được kiến thức bổ ích với thực tiễn mà còn được làm bài kiểm tra để nhận Chứng chỉ Đào tạo liên tục”, bác sĩ chuyên khoa I Huỳnh Thúy Hoa của Phòng khám đa khoa CarePlus (TP.HCM) chia sẻ sau khi tham gia các buổi đào tạo trực tuyến do GE Healthcare đồng tổ chức.

“Ứng dụng công nghệ số nhằm mang đến nhiều lợi ích hơn cho cả bệnh nhân và hệ thống y tế sẽ là bước tiếp theo của quá trình phát triển tự nhiên, giúp chúng ta đạt đến một trạng thái bình thường mới cũng như có thể duy trì được sự ổn định kể cả trong những tình huống biến động,” ông Hồng Sơn nhận định.


Tin cùng chuyên mục

Tin nổi bật trong ngày