Xuất khẩu gỗ dăm: Nỗi lo khi vượt 1 tỉ USD

La Quang Trí (*) Thứ Ba | 05/03/2019 11:45

Tàu Dalia đang xếp hàng dăm gỗ tại cảng Dung Quất - Ảnh La Quang Trí

Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu dăm gỗ lớn nhất thế giới nhưng nghịch lý xuất thô vẫn đeo bám...
Tàu Dalia đang xếp hàng dăm gỗ tại cảng Dung Quất - Ảnh La Quang Trí

Mua tàu lớn, tự tạo vùng nguyên liệu

Xuất khẩu dăm gỗ đã có vào những năm cuối 90 nhưng với số lượng không lớn. Đa số doanh nghiệp xuất khẩu loại hàng này bằng các loại tàu hàng rời thông thường khoảng 3.000-6.000 tấn DWT. Vì dùng các loại tàu thông thường nên việc tăng sản lượng xuất khẩu cũng gặp khó khăn do hạn chế mớn nước ở một số cảng, việc xếp dỡ cũng còn chưa được chuyên nghiệp nên khá chậm.

Hơn nữa, số lượng các cảng chấp nhận làm hàng loại này cũng không nhiều. Chủ yếu ở các tỉnh phía Nam như Đồng Nai, Long An, Cần Thơ, Đồng Tháp… Số lượng xuất khẩu dăm gỗ cả năm 2001 chỉ khoảng 400.000 tấn. Các loại dăm gỗ xuất khẩu thời gian này hầu hết làm từ nguyên liệu bạch đàn, tràm.

Trước năm 2011, số lượng xuất khẩu loại hàng này tăng dần với số lượng khoảng 3-4 triệu tấn khô mỗi năm. Năm 2011, sản lượng xuất khẩu dăm gỗ lên đến hơn 5 triệu tấn khô. Đến năm 2012, Việt Nam chính thức soán ngôi của Úc, trở thành nước xuất khẩu dăm gỗ lớn nhất thế giới.

Thời điểm này, vùng nguyên liệu của dăm gỗ mở rộng ra khắp các tỉnh miền Trung, miền Bắc với nguồn nguyên liệu chính là keo, tràm, cao su… Nhiều nhất là cây keo lai, đâu đâu người ta cũng nói về cây keo, cây nguyên liệu chủ lực của dăm gỗ. Nhiều nông dân nghèo ở các khu vực miền Trung, Tây Nguyên đã đổi đời vì đã sử dụng các đồi trọc, đất vườn hay đồng ruộng nghèo dinh dưỡng để trồng keo lai xuất khẩu.

Nhiều doanh nghiệp đã xây dựng vùng nguyên liệu cho riêng mình, đầu tư máy móc, nhà xưởng để chế biến dăm gỗ ngay tại các cảng xuất khẩu nhằm thuận tiện hơn cho việc vận chuyển nguyên liệu trên đường. Thậm chí, có doanh nghiệp xuất khẩu gỗ dăm đã tự tạo vùng nguyên liệu, tự mua tàu lớn, tự xây cảng để dành riêng xuất khẩu sản phẩm của họ. Các loại tàu họ mua là loại tàu chuyên dụng để chở gỗ dăm, có bụng lớn, chiều sâu cạn, mớn nước thấp nên dễ dàng cập cảng và chở được số lượng hàng rất lớn. Thường các tàu này có tải trọng khoảng 30.000-50.000 tấn DWT.

Xuat khau go dam: Noi lo khi vuot 1 ti USD

Năm 2017, kim ngạch xuất khẩu của dăm gỗ Việt Nam đạt trên 1 tỉ USD tương đương với khoảng 8,2 triệu tấn khô. Chiếm 15% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành gỗ và lâm sản. Thị trường nhập khẩu dăm gỗ nhiều nhất của Việt Nam là Trung Quốc, Nhật  và Hàn Quốc với sản lượng chiếm hơn 90% thị trường. Các thị trường nhỏ hơn có Singapore, Indonesia… Năm 2018 theo đánh giá thì sản lượng xuất khẩu còn cao hơn 2017

Các hệ thống cảng cũng phát triển ngày càng lớn hơn do khách quan và chủ quan cũng góp phần rất lớn vào sản lượng xuất khẩu của mặt hàng này. Rất nhiều cảng ở khu vực miền Trung trước đây khá èo uột do lượng hàng xuất khẩu qua cảng không đều do cảng được xây dựng để phục vụ các mặt hàng công nghiệp cho các khu công nghiệp nhưng giờ hàng hoá qua cảng không còn đều nữa, một số sản phẩm đã được đóng container nhằm giảm giá thành, an toàn vận chuyển, thì những năm gần đây các cảng này nhộn nhịp, tấp nập trở lại bởi dăm gỗ xuất khẩu. Đến nỗi có nhiều cảng chỉ ưu tiên cho riêng loại hàng dăm gỗ này mà từ chối các loại hàng khác.

Vẫn là nghịch lý xuất thô

Tuy nhiên, cũng không phải không có những bất cập khi một số vùng là vùng nguyên liệu của các loại cây khác như quế, lúa, rau màu đã bị thu hẹp bởi cây keo. Nhiều nơi, diện tích rừng bị thu hẹp nhanh chóng. Đất nông nghiệp ở một số nơi cũng thu hẹp bời sự bành trướng của cây keo. Đất sau sử dụng trồng keo lai đã bị nghèo thêm nhanh chóng. Một số nhà máy xuất khẩu gỗ dăm chưa thực hiện tốt viêc lưu trữ gây ô nhiễm môi trường nước và không khí dẫn đến bức xúc cho dân cư các khu vực lân cận các bãi gỗ.

Xuất khẩu dăm gỗ hiện tại vẫn phụ thuộc vào số ít doanh nghiệp lớn có thị trường khá lớn ở Trung Quốc nên việc chèn ép về giá, thao túng thị trường vẫn thường xảy ra dẫn đến tình trạng giá cả bấp bênh, không ổn định. Các doanh nghiệp nhỏ chỉ làm vệ tinh thu mua cho các doanh nghiệp lớn xuất khẩu mà khó có thể tham gia trực tiếp bán hàng cho các đối tác nước ngoài.

Việc gần đây các nước tiêu thụ gỗ dăm cũng đã bắt đầu chuyển hướng vùng nguyên liệu của họ sang các nước ở châu Phi cũng là vấn đề cho ngành trồng và chế biến sản phẩm này ở trong nước. Tuy việc vận chuyển từ châu Phi về là khá xa nhưng đã có những lượt hàng đi từ Trung Quốc xuất khẩu qua đó khá lớn nên việc có hàng vận chuyển chiều về sẽ góp phần làm giảm giá thành vận chuyển.

Xuat khau go dam: Noi lo khi vuot 1 ti USD

Gỗ dăm tiêu thụ nguyên liệu rất nhiều, chiếm hơn 50% nguyên liệu cho toàn ngành gỗ nhưng kim ngạch chỉ chiếm khoảng 15%. Điều này chứng tỏ việc xuất khẩu dăm đem lại lợi ích rất thấp. Năm 2016, Chính phủ quyết định áp dụng mức thuế xuất khẩu 2% đối với dăm. Tuy nhiên, có vẽ biện pháp can thiệp bằng công cụ thuế đối với mặt hàng này không mấy hiệu quả khi thực tế vài năm qua ngành dăm gỗ vẫn ngày càng mở rộng.

Xuất thô và nhập tinh luôn là bài toán khá nan giải cho không chỉ ngành gỗ mà hầu như ở rất nhiều ngành nghề khác của Việt Nam. Trong khi giá xuất khẩu dăm gỗ đi 2 thị trường chính lớn nhất là Trung Quốc và Nhật chỉ có mức giá khoảng trên dưới 120USD/tấn và mua nguyên liệu trực tiếp từ nông dân với giá chỉ khoảng 1,2 triệu đồng thì giá nhập khẩu bột giấy giao động ở mức 1.000USD/tấn, gấp 9-10 lần so với giá xuất bán dăm gỗ.

Nghịch lý lớn hơn nữa là trong khi ở các tình miền Trung rừng xanh đầy cây keo được chặt bán với giá rẻ bèo như trên thậm chí bán qua cả thị trường Indonesia, Malaysia thì các doanh nghiệp có truyền thống làm đồ gỗ phải nhập keo, tràm từ Indonesia, Malaysia để làm nguyên liệu cho các sản phẩm gỗ của họ với giá cao hơn nhiều. Hơi khác một chút là gỗ họ nhập về có tuổi đời già hơn gỗ keo Việt Nam xuất đi.

Năm 2017, Bộ Tài nguyên-Môi trường đã không cho phép thành lập các doanh nghiệp băm dăm mới nhằm hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô, có giá trị kinh tế thấp ra nước ngoài. Chỉ chấp nhận cho những doanh nghiệp chế biến sâu thành các sản phẩm gỗ cao cấp để xuất khẩu. T

uy nhiên, việc có nên để Việt Nam tiếp tục là nhà cung cấp nguyên liệu cho ngành giấy của các nước hay không? Hay việc có nên tiếp tục giữ mô hình trồng rồi 4-5 năm sau khai thác hay không? Đang là vấn đề đau đầu của các cơ quan quản lý. Theo ước tính mỗi hecta đất trồng keo hiện tại sau 5 năm thu hoạch, người trồng rừng thu được khoảng 130 triệu đồng, sau khi trừ các chi phí chỉ còn lãi khoảng 30 triệu đồng.

(*): Giám đốc Công ty Shipoffer Corp.


Tin cùng chuyên mục

Tin nổi bật trong ngày