Câu lạc bộ ngân hàng triệu tỉ
Mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2025 cho thấy sự phân hóa rõ nét trong định hướng giữa nhóm ngân hàng quốc doanh và ngân hàng tư nhân. Ảnh: TL.
Các ngân hàng tư nhân hàng đầu Việt Nam đã tận dụng được cơ hội để đạt mức tăng trưởng ấn tượng về tổng tài sản.Tại Đại hội đồng cổ đông mới đây, ông Nguyễn Đức Vinh, Tổng Giám đốc VPBank, đã khiến các cổ đông háo hức với những mục tiêu cao. Chẳng hạn, ngoài việc đặt mục tiêu tăng trưởng 26% cho năm 2025, VPBank vẫn đặt mục tiêu tăng trưởng 30% cho những năm tiếp theo. Năm 2025, VPBank duy trì biên lợi nhuận 4,7-4,9%, nằm trong Top đầu trên thị trường. Ngân hàng cũng đạt mục tiêu huy động tiền gửi không kỳ hạn (CASA) 100.000 tỉ đồng, tăng trưởng mạnh so với năm ngoái…
Bước tiến vũ bão
Đáng chú ý, nửa đầu năm 2025, VPBank đã thiết lập cột mốc mới trong nhóm các ngân hàng tư nhân Việt Nam với quy mô tài sản vượt 1,1 triệu tỉ đồng, lợi nhuận hơn 11.200 tỉ đồng.
Cùng với VPBank, một số ngân hàng tư nhân tại Việt Nam đã vượt mốc tổng tài sản 1 triệu tỉ đồng. Trong đó, Techcombank là ngân hàng tư nhân đầu tiên của Việt Nam công bố tổng tài sản vượt 1 triệu tỉ đồng. Tính đến hết tháng 6/2025, tổng tài sản của ngân hàng này đạt 1,037 triệu tỉ đồng. Đối với Ngân hàng Quân Đội (MB), tại ngày 30/9/2024, tổng tài sản hợp nhất đã đạt 1,028 triệu tỉ đồng và tiếp tục nhích lên 1,29 triệu tỉ đồng trong quý II/2025, giúp MB củng cố vị thế Top 5 ngân hàng lớn nhất Việt Nam.
Như vậy, hiện có ít nhất 3 ngân hàng tư nhân của Việt Nam đạt tổng tài sản vượt 1 triệu tỉ đồng, cho thấy sự tăng trưởng mạnh mẽ của khối ngân hàng tư nhân trong hệ thống tài chính Việt Nam. Nếu trước đây, nhóm ngân hàng triệu tỉ đồng chỉ giới hạn trong các ngân hàng có vốn nhà nước thì nay đã mở rộng sang khối ngân hàng tư nhân, khiến khoảng cách giữa các ngân hàng có vốn nhà nước và ngân hàng tư nhân dần bị xóa bỏ.
Với ngành ngân hàng, tổng tài sản là một trong những chỉ tiêu then chốt phản ánh quy mô, năng lực tài chính và vị thế cạnh tranh. Tổng tài sản đóng vai trò nền tảng để đánh giá hiệu quả hoạt động thông qua các chỉ số tài chính như ROA (tỉ suất lợi nhuận trên tổng tài sản), thể hiện khả năng quản lý và khai thác hiệu quả nguồn lực, góp phần vào sự phát triển bền vững và ổn định của ngân hàng.
Sự tăng trưởng mạnh mẽ về tổng tài sản của các ngân hàng tư nhân là kết quả của nhiều yếu tố tổng hợp, bao gồm cả các yếu tố nội tại của ngân hàng và các yếu tố vĩ mô của nền kinh tế. Trước hết, đà tăng trưởng tài sản của nhóm ngân hàng này là sự cộng hưởng của đà tăng trưởng tín dụng và huy động vốn. Nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn phục hồi và tăng trưởng, đặc biệt là sự phát triển của tầng lớp trung lưu và các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Quy mô tài sản của nhiều ngân hàng mở rộng rất nhanh trong bối cảnh dư nợ tín dụng - cấu phần chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng tài sản - tăng trưởng bứt phá trong quý II/2025. Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, tính đến ngày 30/6, tín dụng toàn hệ thống đạt 17,2 triệu tỉ đồng, tăng 9,9% so với cuối năm 2024 và 19,32% so với cùng kỳ năm 2024. Đây là mức tăng trưởng cao nhất kể từ năm 2022 đến nay.Các ngân hàng này có chiến lược huy động vốn đa dạng và hiệu quả, bao gồm việc tăng cường thu hút tiền gửi từ khách hàng cá nhân và tổ chức. Ví dụ, Techcombank có tỉ lệ CASA cao, giúp tối ưu chi phí vốn.
Mặc dù nhóm Big 4 vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng dư nợ (khoảng 47% tổng dư nợ của 26 ngân hàng trong năm 2024), nhưng các ngân hàng tư nhân đang dần chiếm lĩnh thêm thị phần, đặc biệt ở phân khúc khách hàng cá nhân, doanh nghiệp nhỏ và vừa và các lĩnh vực có biên lợi nhuận cao hơn.
![]() |
Cuộc đối đầu với Big 4
Có quan điểm cho rằng, các ngân hàng thương mại nhà nước đã “nhường” một phần thị phần tín dụng cho khối tư nhân để tập trung vào các mục tiêu vĩ mô và hỗ trợ nền kinh tế. Đặc biệt, trong Báo cáo “Triển vọng kinh tế Việt Nam 2024”, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) cho biết, tỉ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM) của nhóm ngân hàng thương mại nhà nước như BIDV, VietinBank, Vietcombank luôn thấp hơn nhóm các ngân hàng tư nhân trước, trong và sau đại dịch COVID-19. Không những vậy, NIM của nhóm ngân hàng quốc doanh năm 2023 đã xuống thấp hơn thời điểm trước COVID-19 là năm 2019 khi giảm lãi suất để hỗ trợ tăng trưởng. Điều này cũng đồng nghĩa với việc họ phải giảm bớt lợi nhuận.
Thực tế, các ngân hàng tư nhân tận dụng cơ hội này nhằm tăng khả năng chủ động hơn trong việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu để tăng vốn, tạo dư địa cho mở rộng tín dụng và đầu tư. Với cơ chế linh hoạt, đầu tư mạnh cho chuyển đổi số cũng là yếu tố then chốt giúp các ngân hàng tối ưu hóa hoạt động, nâng cao trải nghiệm khách hàng và mở rộng tệp khách hàng. Các ngân hàng như Techcombank, VPBank, MB đã chi hàng ngàn tỉ đồng đầu tư vào hạ tầng công nghệ, hệ thống ngân hàng lõi và các giải pháp số hóa.
Nhờ đó, tỉ lệ giao dịch trên kênh số của nhiều ngân hàng đạt hơn 90%, giúp tiết kiệm chi phí vận hành và nâng cao hiệu quả. Tỉ lệ CASA cao của Techcombank, MB là minh chứng cho việc họ thu hút được lượng lớn tiền gửi không kỳ hạn nhờ dịch vụ số hóa. Chẳng hạn, 6 tháng đầu năm, VPBank ghi nhận CASA tăng trưởng 40%, trong khi quý II, Techcombank tiếp tục duy trì vị thế cao nhất ngành với tỉ lệ CASA đạt 41,1%; quy mô CASA cũng lập đỉnh mới, chạm mốc 242.000 tỉ đồng.
Ông Phạm Như Ánh, Tổng Giám đốc MB, cho biết Ngân hàng vẫn giữ vững mục tiêu CASA ở mức 39-40%, bất chấp sự cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ. “MB là doanh nghiệp số, sở hữu lượng khách hàng rất lớn, dự kiến đạt 35 triệu khách hàng trong năm nay và hướng tới 40 triệu trong vài năm tới. Chúng tôi đang phát triển thêm các giải pháp công nghệ như dịch vụ đầu tư tự động để tăng trải nghiệm và giữ chân khách hàng”, ông Ánh cho biết.
Ông Lê Hoài Ân, CFA, sáng lập IFSS, Công ty Cổ phần Giải pháp Tài chính Tích hợp, cũng nhận định đầu tư vào chuyển đổi số không chỉ mang lại hiệu quả ngắn hạn về chi phí, mà còn tạo ra lợi thế cạnh tranh bền vững cho các ngân hàng trong dài hạn. Nhất là vào thời điểm, dư địa tăng trưởng bắt đầu thu hẹp, buộc các ngân hàng phải tìm đến sự khác biệt về cấu trúc tài chính và công nghệ để duy trì vị thế.
![]() |
Bên cạnh đó, các ngân hàng này không chỉ tập trung vào tín dụng mà còn phát triển những nguồn thu ngoài lãi từ hệ sinh thái tài chính, dịch vụ thanh toán, thẻ và các sản phẩm tài chính số. Đồng thời, họ tập trung vào các nhóm khách hàng chuyên biệt cao để tạo lợi thế cạnh tranh. Chẳng hạn, Techcombank tập trung vào phân khúc khách hàng thu nhập cao và các doanh nghiệp lớn, xây dựng hệ sinh thái tài chính đa dạng. VPBank có thế mạnh trong lĩnh vực tài chính tiêu dùng với FE Credit, mở rộng sang phân khúc khách hàng cá nhân và doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Báo cáo của MBS Research đánh giá khối ngân hàng tư nhân sẽ tiếp tục đóng vai trò dẫn dắt trong năm 2025, với tăng trưởng lợi nhuận ròng dự báo đạt 25,9% so với cùng kỳ, vượt trội so với mức 8,2% của nhóm ngân hàng quốc doanh. Xu hướng tăng trưởng mạnh mẽ của các ngân hàng tư nhân hàng đầu như Techcombank, VPBank và MB đang tạo ra sự cạnh tranh trực tiếp với nhóm Big 4 ngân hàng thương mại nhà nước.
Việc Ngân hàng Nhà nước tiến tới bỏ cơ chế hạn mức tăng trưởng tín dụng sẽ làm tăng tính cạnh tranh trong toàn hệ thống. Các ngân hàng tư nhân với khả năng tăng vốn linh hoạt và tỉ lệ an toàn vốn (CAR) tốt hơn có thể tận dụng cơ hội này để mở rộng tín dụng mạnh mẽ hơn. Ngược lại, nếu Big 4 không được tăng vốn kịp thời, có thể gặp bất lợi trong cuộc đua thị phần tín dụng.
![]() |
| Xu hướng tăng trưởng mạnh mẽ của các ngân hàng tư nhân hàng đầu như Techcombank, VPBank và MB đang tạo ra sự cạnh tranh trực tiếp với nhóm Big 4 ngân hàng thương mại nhà nước. Ảnh: TL. |
Mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2025 cho thấy sự phân hóa rõ nét trong định hướng giữa nhóm ngân hàng quốc doanh và ngân hàng tư nhân. Trong khi các ngân hàng HDBank, VIB hay VPBank đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng vượt ngưỡng 20% thì Vietcombank, BIDV và VietinBank chỉ duy trì mức kế hoạch quanh 15%. Các ngân hàng tư nhân có thể tận dụng dư địa để mở rộng nhanh ở các mảng như tín dụng bán lẻ, tiêu dùng cá nhân và doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong khi đây là những phân khúc không phải là trọng tâm ưu tiên của khối ngân hàng quốc doanh. Và trong khi nhiều ngân hàng tư nhân chủ trương tăng tốc, mở rộng quy mô cho vay thì khối ngân hàng quốc doanh lại thận trọng hơn trong tái cấu trúc danh mục, cải thiện hệ số CASA, kiểm soát nợ xấu (NPL)...
Tuy nhiên, xu hướng tăng trưởng của các ngân hàng tư nhân không hẳn là “cạnh tranh tiêu cực” với Big 4, mà là sự phát triển lành mạnh của một thị trường tài chính đa dạng. Nhóm ngân hàng quốc doanh đang nắm giữ hơn 40% thị phần tín dụng toàn ngành, đóng vai trò chủ lực trong việc điều tiết dòng vốn tín dụng của nền kinh tế. Vì vậy, nhóm Big 4 vẫn duy trì vị thế trụ cột, đảm bảo sự ổn định của toàn hệ thống, trong khi các ngân hàng tư nhân mang đến sự đổi mới, linh hoạt và đáp ứng các nhu cầu đa dạng hơn của khách hàng. Sự cạnh tranh này sẽ thúc đẩy cả 2 nhóm phải nỗ lực hơn để cải thiện chất lượng dịch vụ, đổi mới công nghệ và nâng cao hiệu quả hoạt động..
Theo dõi Nhịp Cầu Đầu Tư



