Thế giới

50 quốc gia tự chủ lương thực hàng đầu

Thứ Sáu | 25/07/2025 16:47

Những vùng đất phù sa màu mỡ như Guyana giúp nước này thu hoạch bội thu các loại cây tinh bột như lúa và khoai. Ảnh minh họa: AL-Monitor

Dựa trên bảy nhóm thực phẩm thiết yếu, bảng xếp hạng dưới đây cho thấy mức độ tự chủ lương thực của một số quốc gia.
Những vùng đất phù sa màu mỡ như Guyana giúp nước này thu hoạch bội thu các loại cây tinh bột như lúa và khoai. Ảnh minh họa: AL-Monitor

Các nhà nghiên cứu đã so sánh sản lượng thực phẩm từng nước với hướng dẫn ăn uống Livewell trên bảy nhóm thực phẩm chính: Trái cây, rau củ, cây họ đậu, thực phẩm tinh bột, thịt, cá và sữa. Một quốc gia được coi là tự chủ thực phẩm khi đạt 100% nhu cầu trong mỗi nhóm này. Tỉ lệ vượt 100% cho thấy quốc gia đó có khả năng xuất khẩu, dưới 100% tức là vẫn cần nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu.

Đồ họa dưới đây xếp hạng 50 quốc gia tiến gần nhất tới khả năng tự chủ hoàn toàn về lương thực, đồng thời cho thấy những nhóm thực phẩm nào vẫn phải phụ thuộc vào nhập khẩu. Dữ liệu được lấy từ một nghiên cứu công bố tháng 5/2025 trên tạp chí Nature Food, có tựa đề “Khoảng cách giữa sản xuất thực phẩm quốc gia và hướng dẫn chế độ ăn uống cho thấy sự thiếu hụt về mức độ tự chủ lương thực quốc gia” của các nhà nghiên cứu Stehl, J., Vonderschmidt, A., Vollmer, S. và cộng sự.

Guyana là quốc gia duy nhất đạt điểm tuyệt đối ở cả bảy nhóm thực phẩm. Những vùng đất phù sa màu mỡ giúp Guyana thu hoạch bội thu các loại cây tinh bột như lúa và khoai. Nguồn thủy sản phong phú từ sông ngòi và đồng cỏ chăn nuôi giúp sản lượng thịt và cá vượt xa nhu cầu của 900.000 dân.

Chỉ một số ít quốc gia khác tiệm cận nhóm “toàn diện”: Việt Nam và Trung Quốc đáp ứng được 6 nhóm thực phẩm, còn 23 quốc gia khác đạt được 5 nhóm. 

Ở các siêu thị châu Âu, trái cây có vẻ như rất dồi dào nhưng con số lại cho thấy điều ngược lại. Trong số các quốc gia xếp hạng cao, Nga chỉ đáp ứng được 33% nhu cầu trái cây trong nước, Latvia là 13%, còn Estonia chỉ đạt 3%. Việc sản xuất rau ở các nước này cũng không khả quan hơn, tuy nhiên Nam Âu lại có thành tích tốt trong lĩnh vực này, ví dụ Tây Ban Nha sản xuất lượng trái cây và rau củ gấp 4 lần nhu cầu trong nước, phần còn lại được xuất khẩu sang phía Bắc.

Ở nhiều nước châu Á, sữa và phô mai vẫn là mặt hàng nhập khẩu xa xỉ. Việt Nam và Trung Quốc đạt điểm cao ở 5 nhóm thực phẩm khác, nhưng mức độ tự chủ về sữa chỉ lần lượt là 14% và 29%. Khí hậu nhiệt đới, diện tích đồng cỏ hạn chế và thói quen ăn uống trong văn hóa là những yếu tố cản trở việc chăn nuôi bò sữa quy mô lớn. Kyrgyzstan và Uzbekistan là những ngoại lệ hiếm hoi, vượt nhu cầu nội địa về sữa nhờ tận dụng đồng cỏ ở vùng núi cao.

Mỹ nằm ở nhóm giữa bảng xếp hạng, đạt tự chủ 4/7 nhóm thực phẩm, tương đương với Canada và cao gấp đôi Anh (2 nhóm). Đây là chi tiết mức độ tự chủ thực phẩm của Mỹ theo từng nhóm: Trái cây: 70%, rau củ: 61%, đậu: 1.259%, tinh bột: 188%, thịt: 717%, cá: 43%, sữa: 409%. Từ các nghiên cứu liên quan đến đất nông nghiệp Mỹ, nước này sở hữu diện tích canh tác rộng lớn, đất đai màu mỡ, hệ thống tưới tiêu hiện đại và nền nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Bên cạnh đó, ngành chăn nuôi công nghiệp phát triển mạnh giúp nước này đạt sản lượng vượt trội ở các nhóm cây họ đậu, thực phẩm tinh bột, thịt và sữa.

Ngoài ra, National Geographic cũng chỉ ra, nhiều quốc gia hoàn toàn có khả năng sản xuất đủ thực phẩm cho nhu cầu trong nước. Tuy nhiên, do chi phí sản xuất cao, hạn chế về tài nguyên hoặc chính sách thương mại thuận lợi, việc nhập khẩu lại trở thành lựa chọn kinh tế hiệu quả hơn về lâu dài.

Có thể bạn quan tâm:

Cuộc chiến chống hàng giả xa xỉ

Nguồn Visualcapitalist


Tin cùng chuyên mục

Tin nổi bật trong ngày