Kinh Doanh

Cơ khí chế tạo: Sáng chính sách, tắc nhân lực

Huy Vũ Thứ Tư | 29/10/2025 07:30

Doanh nghiệp được hỗ trợ lên tới 50% chi phí cho R&D và 70% chi phí cho hoạt động nâng cao chất lượng đội ngũ chuyên gia và tư vấn.

Các chính sách mới về R&D từ Chính phủ đang giúp doanh nghiệp giảm chi phí đầu tư, tăng tốc đổi mới công nghệ, tiêu chuẩn hóa theo quy chuẩn quốc tế.
Doanh nghiệp được hỗ trợ lên tới 50% chi phí cho R&D và 70% chi phí cho hoạt động nâng cao chất lượng đội ngũ chuyên gia và tư vấn.

Chia sẻ tại tọa đàm “Tận dụng chính sách mới và nguồn nhân lực để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cơ khí”, ông Trần Hồng Quân, Giám đốc Thương mại Việt Nam của RX Tradex, cho biết Nghị định 205/2025/NĐ-CP là minh chứng mới nhất cho việc sửa đổi và bổ sung cơ chế hỗ trợ về nghiên cứu, phát triển và chuyển giao công nghệ. Theo đó, doanh nghiệp được hỗ trợ lên tới 50% chi phí cho R&D và 70% chi phí cho hoạt động nâng cao chất lượng đội ngũ chuyên gia và tư vấn. “Đây là nguồn lực thiết thực giúp doanh nghiệp giảm chi phí đầu tư và tăng tốc đổi mới công nghệ”, ông Quân nói.

Theo ông Lê Trọng Thêm, Luật sư Điều hành Sáng lập Công ty Luật LTT & Lawyers, ưu đãi trên đến từ 2 quy định. Một là doanh nghiệp  được sử dụng 20% thu nhập tính thuế để lập quỹ phát triển khoa học công nghệ. Ông cũng lưu ý rằng điều này không mới mà là tái khẳng định từ Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp. Thứ 2 là cơ chế chi 1 đồng nhưng được tính chi phí 2 đồng đối với các khoản đầu tư cho R&D. Theo ông, đây là điều chưa từng có và là ưu đãi rất lớn cho ngành cơ khí. 

“Các khoản chi phí được tính gấp đôi này bao gồm chi phí nhân sự cho R&D, chi phí nguyên vật liệu, vật tư sản xuất để nghiên cứu và chi phí nhập khẩu, chuyển giao công nghệ hoặc các tài sản trí tuệ”, ông Thêm nói.

Ngoài ra, theo ông Thêm, Quyết định 319/QĐ-TTg cũng góp phần làm rõ định hướng chiến lược của Chính phủ Việt Nam trong việc tạo ra một nền tảng hỗ trợ vững chắc cho ngành cơ khí, đặc biệt là thông qua việc phát triển công nghiệp hỗ trợ.

Mục tiêu chính của Quyết định là nhằm khắc phục tỉ lệ nội địa hóa thấp hiện nay. Tỉ lệ này thấp dẫn đến việc chi phí cấu thành sản xuất sẽ cao và có thể bị đánh giá là hàng dán mãn từ Trung Quốc, dẫn đến bị áp thuế cao bởi các quốc gia “nhạy cảm” như Mỹ.

Đây cũng là lúc các doanh nghiệp cần quan tâm đến việc đăng ký và bảo vệ quyền sáng chế, sử dụng các thỏa thuận bảo mật thông tin (NDA) rõ ràng nhằm đảm bảo quyền tài sản để khai thác thương mại đối với sản phẩm cơ khí thuộc về doanh nghiệp. “Tài sản lớn nhất của doanh nghiệp cơ khí là bằng sáng chế và vấn đề về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ”, ông Thêm nói.

Trả lời NCĐT, ông Michael Kokalari, Giám đốc Phòng Phân tích Kinh tế vĩ mô và Nghiên cứu thị trường VinaCapital, cho biết các ưu đãi thuế, như cho phép khấu trừ 200% chi phí hoạt động R&D khi tính thu nhập chịu thuế, sẽ tác động rõ rệt đến động lực đầu tư của doanh nghiệp. “Thực tế, các chính sách ưu đãi về thuế trong những năm 1960-1970 tại Mỹ là yếu tố then chốt thúc đẩy làn sóng đầu tư mạnh mẽ vào hoạt động R&D. Đây là một xu hướng đã được kiểm chứng và ghi nhận rộng rãi”, ông Michael Kokalari nói.

Tuy nhiên, việc thiếu hụt nhân lực trình độ cao có thể là điểm nghẽn lớn cho doanh nghiệp cơ khí chế tạo nói riêng và doanh nghiệp sản xuất của Việt Nam nói chung. Bà Đào Yến, Giám đốc Kinh doanh Dịch vụ Khoán việc và Cho thuê lại lao động, Manpower Việt Nam, cho biết hiện nay các hoạt động đào tạo về chuyên môn cơ khí không nhiều và tay nghề, kỹ năng của họ thường chưa đạt được yêu cầu mà các công ty đang mong muốn, đặc biệt là doanh nghiệp FDI (cần phải đào tạo từ 2-3 năm).

Thống kê từ Manpower Việt Nam cho thấy thị trường đang cần tới 39,57% lao động đã qua đào tạo trường nghề hoặc cao đẳng, nhưng số sinh viên mới ra trường hằng năm chỉ đáp ứng được 19,5%. Điều đó, theo bà Yến, có thể dẫn đến cuộc cạnh tranh thu hút lao động trong tương lai gần. Thực tế này đã diễn ra khi các tập đoàn lớn (Fusan, Luxshare, Pegatron) vào miền Bắc đã gây ra cuộc chiến thu hút và giành giật đến từng người lao động, dẫn đến tăng chi phí lao động.

Để ứng phó, bà Yến cho rằng đã đến lúc các doanh nghiệp sản xuất Việt Nam nên đầu tư vào thương hiệu tuyển dụng. Thống kê cho thấy 86% ứng viên sẽ không nộp hồ sơ cho công ty có thương hiệu tuyển dụng không tốt. Thứ 2 là cần phải hiểu động lực của người đi làm để giữ chân nhân tài. Động lực khiến người lao động ở lại lâu dài là họ cảm thấy có giá trị, theo thống kê của Manpower từ hơn 50% số người được phỏng vấn. Cuối cùng là thay đổi phương thức quản trị. Chẳng hạn, nhóm lao động Gen Z, lực lượng lao động chính trong tương lai gần, thường đánh giá cao việc cân bằng giữa công việc và cuộc sống. 

“Vì thế, cách quản lý cần phải điều chỉnh theo hướng chỉ nên quản lý về mặt chỉ tiêu, không nên quản lý vi mô (một phong cách quản lý, trong đó người quản lý can thiệp quá sâu vào từng chi tiết nhỏ trong công việc của nhân viên), vì nhóm này rất có cá tính và sẵn sàng lên tiếng”, bà Yến nói.

Còn theo ông Kokalari, Việt Nam vẫn đang trong quá trình xây dựng hệ sinh thái doanh nghiệp công nghệ cao nội địa, gia tăng tỉ lệ nội địa hóa. Nhóm mới gia nhập thị trường sẽ khó có thể tận dụng triệt để các chính sách ưu đãi, trong khi các doanh nghiệp công nghệ và dược phẩm đã có nền tảng hoạt động ổn định sẽ là những đối tượng thụ hưởng hiệu quả nhất từ các chính sách khuyến khích hoạt động R&D.

Để giải quyết bài toán nhân lực, mô hình R&D do các trường đại học dẫn dắt nên được ưu tiên cân nhắc. Cách tiếp cận này vừa bảo đảm chất lượng chuyên môn, vừa góp phần định hướng doanh nghiệp tập trung vào những nghiên cứu có giá trị thực tiễn và phù hợp với mục tiêu phát triển dài hạn.
 


Tin cùng chuyên mục

Tin nổi bật trong ngày