Thế giới

Tại sao ý tưởng thay thế nhập khẩu lại được hồi sinh?

Mai Nam Thứ Ba | 10/11/2020 09:01

Thế giới công nghiệp hóa đang quay ngược trở lại một cách không mong muốn. Ảnh: The Economist.

Kinh nghiệm trong quá khứ cho thấy sự hồi sinh của một nền kinh tế công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu khó có thể thành công.
Thế giới công nghiệp hóa đang quay ngược trở lại một cách không mong muốn. Ảnh: The Economist.

Theo The Economist, trong 1/4 thế kỷ qua, tăng trưởng thế giới đang phát triển một cách dễ dàng đến mức khó có thể nhớ rằng đó là từ bao giờ. Được thúc đẩy bởi toàn cầu hóa, GDP thực tế trên một người ở các nền kinh tế mới nổi đã tăng hơn gấp đôi từ năm 1995 đến năm 2019, tính theo sức mua tương đương. 

Ngược lại, ở các nước tiên tiến, con số này chỉ tăng 44%. Sự bùng nổ tăng trưởng kéo theo những tranh luận đáng giá trong nhiều thập kỷ qua về việc liệu các nước nghèo có thể bắt kịp các nước giàu hay không và bằng cách nào. 

Tuy nhiên, sự bùng nổ tăng trưởng thương mại đã kết thúc. Thế giới công nghiệp hóa đang quay ngược trở lại một cách không mong muốn. Do đó, một số chính phủ đang loại bỏ những ý tưởng cũ. Trong số đó, “công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu” - một chiến lược tìm cách phát triển năng lực công nghiệp bằng cách che chắn các nhà sản xuất trong nước khỏi sự cạnh tranh của nước ngoài. 

Nhiều quốc gia cảm thấy họ không có lựa chọn nào khác ngoài việc thử ý tưởng trên. Nhưng vì các điều kiện có thể cho phép nó thành công thường không có ở những nền kinh tế nghèo nhất, sự phục hưng dường như sẽ thất bại.

 Các tham chiếu về thay thế nhập khẩu bắt đầu từ những năm 1960, chững lại vào những năm 1970 và 1980, sau đó giảm dần vào những năm 1990 khi chính quyền Washington ủng hộ tự do hóa thương mại trở nên phổ biến. Ảnh: PIIE.
Các tham chiếu về thay thế nhập khẩu bắt đầu từ những năm 1960, chững lại vào những năm 1970 và 1980, sau đó giảm dần vào những năm 1990 khi chính quyền Washington ủng hộ tự do hóa thương mại trở nên phổ biến. Ảnh: PIIE.

Từ năm 1990-2008, thương mại toàn cầu tính theo tỉ trọng GDP đã tăng từ 39% lên 61%. Như Martin Kessler và Arvind Subramanian của Viện Kinh tế Quốc tế Peterson đã gọi nó là Hyperglobalisation. Và Hyperglobalisation này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng kinh tế trên diện rộng và nhanh chóng. 

Sau những năm cuối thập niên 1990, tăng trưởng thu nhập trên đầu người ở gần 3/4 các nước đang phát triển đã cao hơn ở Mỹ, trung bình hơn 3 điểm phần trăm một năm. Chuỗi cung ứng toàn cầu phát triển mạnh mẽ. Các quốc gia có nền công nghiệp nhỏ hoặc không có nền công nghiệp nào, có thể xuất khẩu hàng hóa sản xuất bằng cách tìm các ngách trong chuỗi sản xuất, theo con đường tắt của công nghiệp hóa.

Tuy nhiên, kỷ nguyên mở cửa đang dần kết thúc. Tỉ trọng thương mại trong GDP thế giới giảm sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Năm ngoái, tỉ trọng thương mại trong GDP toàn cầu vẫn ở dưới mức đỉnh năm 2008. Mức độ thương mại thế giới dự báo giảm hơn 9% trong năm nay. Ở Mỹ và châu Âu, tình trạng thiếu hụt nguồn cung cấp y tế và mối quan hệ căng thẳng với Trung Quốc đã khơi dậy mối quan tâm đến việc bảo vệ các nhà sản xuất trong nước. 

Tại Ấn Độ, Thủ tướng Narendra Modi cũng công bố một chiến dịch đòi tự lực cánh sinh như một phần trong gói phục hồi đại dịch của ông hồi tháng 5. Các chính trị gia chỉ ra rằng khi bị các nhà lãnh đạo thế giới giàu có thúc ép tự do hóa, nhiều nền kinh tế tiên tiến ngày nay đã thực hiện các yếu tố của chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu.

Do đó, các chính phủ dựng lên hàng rào thuế quan và huy động vốn trong nước, thường được rút ra khỏi lĩnh vực nông nghiệp, hướng tới ngành công nghiệp do nhà nước hỗ trợ. Ảnh: The Economist.
Các chính phủ dựng lên hàng rào thuế quan và huy động vốn trong nước, thường được rút ra khỏi lĩnh vực nông nghiệp, hướng tới ngành công nghiệp do nhà nước hỗ trợ. Ảnh: The Economist.

Nga và Nhật đã theo sau Tây Âu trong việc thúc đẩy ngành công nghiệp trong nước như một vấn đề an ninh quốc gia.

Tuy nhiên, kinh nghiệm trong quá khứ cũng cho thấy lý do tại sao sự quan tâm mới đến công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu có thể bị sai lầm. Thời hoàng kim trí tuệ của chiến lược này là vào những năm 1950, khi các nhà kinh tế học như Raúl Prebisch và Gunnar Myrdal (người sau này đoạt giải Nobel) lập luận chống lại cách tiếp cận tự do đối với thương mại ở các nền kinh tế đang phát triển.

Quan điểm của 2 nhà kinh tế học được thông báo bởi những ràng buộc của thời đại mà họ sống. Các nước nghèo đang rất thiếu tiền để nhập khẩu sau chiến tranh thế giới thứ II. Việc thay thế một số mặt hàng nhập khẩu bằng sản xuất trong nước được coi là một cách để thu ngoại tệ. 

Những người ủng hộ công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu bác bỏ ý kiến ​​cho rằng chuyên môn hóa và thương mại sẽ giúp mọi nền kinh tế tốt hơn. Các quốc gia nghèo nếu mắc kẹt vào lợi thế so sánh sẽ mãi mãi là những nhà xuất khẩu các sản phẩm chính, không bao giờ có bước nhảy vọt lên công nghiệp hóa và cải thiện thu nhập.

Các sai sót của công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu cũng khá nhanh chóng trở nên rõ ràng. Nhiều chính phủ đã sử dụng nó để dành ưu đãi cho các ngành công nghiệp trong nước dựa trên tư lợi chính trị hơn là tính toán kinh tế hợp lý. Các rào cản thuế quan khiến một số quốc gia gần như đóng cửa thương mại. 

Những câu chuyện thành công như Hàn Quốc và Đài Loan là rất hiếm trước khi thị trường mới nổi tăng tốc vào những năm 1990. Nhưng sự cạnh tranh toàn cầu đã đặt ra áp lực không ngừng đối với các nhà xuất khẩu, buộc họ phải trở nên hiệu quả hơn và khuyến khích tiếp thu bí quyết kỹ thuật. 

Ở các nền kinh tế có thị trường nội địa rộng lớn và các quốc gia có năng lực, việc thay thế nhập khẩu có thể cho phép các chính phủ đạt được các mục tiêu chiến lược mà không thúc đẩy các công ty giảm tốc độ tăng trưởng. 

Có thể bạn quan tâm:

► Tại sao thị trường trái phiếu có thể khiến Tổng thống tiếp theo của Mỹ "thức đêm"


Tin cùng chuyên mục

Tin nổi bật trong ngày