Kinh Doanh

"Hóa hổ" để “go global”

Trực Thanh Thứ Hai | 06/10/2025 14:00

Việt Nam đang nổi lên như trung tâm sản xuất mới của khu vực với vốn FDI năm 2024 đạt 38,2 tỉ USD. Ảnh: QH.

Đẩy mạnh số lượng doanh nghiệp Việt tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu là bài toán của kinh tế Việt Nam trong thập kỷ tiếp theo.
Việt Nam đang nổi lên như trung tâm sản xuất mới của khu vực với vốn FDI năm 2024 đạt 38,2 tỉ USD. Ảnh: QH.

"Việt Nam được ví như con hổ mới của châu Á khi sở hữu tốc độ tăng trưởng GDP 7,5%, dân số trẻ, môi trường hội nhập rộng mở và lợi thế cải cách. Nếu tận dụng đúng thời điểm, Việt Nam có thể gia nhập nhóm các quốc gia có thu nhập cao trong vòng 2 thập kỷ tới, theo con đường mà các nền kinh tế Hàn Quốc và Đài Loan đã từng đi”, ông Brook Taylor, CEO Công ty Quản lý Quỹ VinaCapital, nhận định.

Mối quan tâm chính của các nhà đầu tư quốc tế như ông Taylor trên con đường “hóa hổ” của Việt Nam là làm thế nào để doanh nghiệp Việt không chỉ tham gia, mà còn trở thành mắt xích quan trọng trong các chuỗi cung ứng chủ chốt toàn cầu? Đây là câu hỏi đầy trăn trở của các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam tại Phiên đối thoại cấp cao Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam 2025. 

 

Sự trăn trở này đến từ những con số cụ thể: Việt Nam đang nổi lên như trung tâm sản xuất mới của khu vực với vốn FDI năm 2024 đạt 38,2 tỉ USD. Tuy nhiên, hiện hơn 70% kim ngạch xuất khẩu vẫn do khối FDI chi phối, trong khi tỉ lệ doanh nghiệp nội địa trực tiếp tham gia chuỗi toàn cầu chỉ dưới 30%. 

Theo Cục Công nghiệp, Việt Nam hiện có gần 1 triệu doanh nghiệp, nhưng chỉ có khoảng 5.000 doanh nghiệp tham gia được vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Sau gần 40 năm phát triển, số doanh nghiệp Việt Nam có năng lực để tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu quá ít ỏi, chỉ khoảng 0,5%. Đây là một rào cản cần thay đổi trong bối cảnh Việt Nam đang muốn tạo ra một cuộc cách mạng về phát triển kinh tế tư nhân.

Để thoát khỏi “cạm bẫy gia công”, doanh nghiệp Việt cần đa dạng hóa thị trường, giảm chi phí logistics và đặc biệt là nâng cấp vị thế trong chuỗi giá trị. Chỉ khi tham gia vào những khâu có giá trị cao hơn từ thiết kế, nghiên cứu đến xây dựng thương hiệu, doanh nghiệp Việt mới thực sự bứt phá. Điều này được Nafoods trải nghiệm với hành trình khởi đầu từ một nhà máy nhỏ ở Nghệ An, đến nay đã có 6 nhà máy trải dài từ Bắc vào Nam và xuất khẩu tới hơn 70 quốc gia.  

Từ kinh nghiệm xuất khẩu của mình, ông Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ tịch Nafoods, cho biết ngành chế biến nông sản đang gặp nhiều nút thắt lớn. Đó là logistics và hạ tầng kho lạnh còn yếu, làm đội giá thành. Các thủ tục CO, VAT, hoàn thuế phức tạp, gây chậm tiến độ. Quan trọng hơn, thiếu thương hiệu quốc gia mạnh, liên kết doanh nghiệp - nông dân - viện, trường còn lỏng lẻo. Khung thể chế về nông nghiệp xanh, tín chỉ carbon và truy xuất số chưa hoàn thiện, khiến nông sản khó đạt chuẩn quốc tế...

Đây cũng là khó khăn chung của nhiều doanh nghiệp không thể lớn được hoặc rơi vào bẫy “li ti hóa” nhiều năm qua và trở thành rào cản lớn khi tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu do thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao, thiếu đầu tư vào công nghệ và đổi mới sáng tạo… 

Trong khi đó, ngành chế biến xuất khẩu gỗ là một thành công điển hình về các mũi nhọn xuất khẩu của Việt Nam trong nhiều thập kỷ qua. Sản phẩm gỗ Việt đã hiện diện tại 170 thị trường, dự kiến đạt 20 tỉ USD xuất khẩu gỗ năm 2025, trong đó hơn 60% là hàng tinh chế, nội thất cao cấp.

 

Ông Nguyễn Quốc Khanh, Chủ tịch AA Corporation, chia sẻ, Việt Nam hiện đã vươn lên thành một cường quốc xuất khẩu đồ nội thất lớn thứ 2, chỉ sau Trung Quốc. Đặc biệt, ngành gỗ Việt Nam đã dần hình thành rõ nét chuỗi cung ứng hoàn chỉnh, tạo ra lợi thế cạnh tranh toàn cầu cho ngành. Tuy nhiên, một thực trạng nhiều năm qua là doanh nghiệp Việt đang yếu thế hơn so với các doanh nghiệp FDI. Khối FDI dù chỉ chiếm chưa tới 15% tổng số doanh nghiệp nhưng đang chiếm gần 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành gỗ.

“Trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị thế giới có nhiều chuyển biến phức tạp, ngành công nghiệp gỗ Việt Nam cần có sự đồng hành từ Chính phủ và các ban ngành”, ông Khanh cho biết. Theo đại diện của AA Corporation, cần xây dựng thương hiệu quốc gia ngành gỗ và nội thất Việt Nam, đẩy mạnh hỗ trợ xúc tiến thương mại xuất khẩu. Bên cạnh đó là đầu tư vào công nghệ hỗ trợ đổi mới công nghệ cho ngành gỗ. Qua đó, nâng cao lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp Việt Nam so với khối FDI. 

Có thể thấy, các vấn đề của doanh nghiệp tuy khác nhau ở mỗi ngành, nhưng đều có một mẫu số chung, đó là sự cần thiết phải liên kết và có vai trò kiến tạo của Chính phủ. Điều này trở nên cấp thiết cùng với thời điểm diễn ra sự dịch chuyển mạnh mẽ của dòng vốn toàn cầu vào các lĩnh vực công nghệ, trí tuệ nhân tạo, năng lượng tái tạo và hạ tầng. Đây là cơ hội để doanh nghiệp Việt mở rộng cánh cửa gọi vốn và tham gia sâu hơn vào thị trường quốc tế. 

Đẩy mạnh số lượng doanh nghiệp Việt tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu là bài toán của nền kinh tế Việt Nam trong thập kỷ tiếp theo. Tiến sĩ Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Vietnam, nhấn mạnh yêu cầu trong giai đoạn tới, doanh nghiệp tư nhân phải tiên phong thay đổi mô hình xuất khẩu trong quá trình “go global” (đi ra thế giới). Để xuất khẩu trở thành động lực bền vững, doanh nghiệp Việt cần đổi mới tư duy, coi trọng giá trị và thương hiệu thay vì chỉ dựa vào chi phí thấp, mở rộng thị trường đi đôi với nâng cao chất lượng và vị thế quốc gia.

Hành trình này, theo ông Đặng Hồng Anh, Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam, cần có sự kết hợp giữa chính sách kiến tạo của Chính phủ và cơ chế dìu dắt từ cộng đồng doanh nhân, hình thành lớp doanh nhân kế cận bản lĩnh, tri thức. “Một quốc gia cất cánh không chỉ nhờ những đột phá vĩ mô, mà còn bởi hàng triệu quyết định nhỏ đúng đắn mỗi ngày: một thủ tục được cắt bỏ, một khoản tín dụng được giải ngân minh bạch, một lô hàng được thông quan đúng hẹn... Những điều ấy, khi cộng hưởng, sẽ tạo nên thay đổi lớn”, ông Hồng Anh nhấn mạnh. 

Có thể bạn quan tâm 

Nghịch lý của sữa


 


Tin cùng chuyên mục

Tin nổi bật trong ngày